
Tên khác: Rau cần dại, thạch long nhuế. Tên khoa học: Ranunculus sceleratus L., Họ Hoàng liên (Ranunculaceae)
Mô tả: Cây thảo, sống hàng năm, cao 30 - 70cm, Thân nhẵn, ngoài có khía dọc. Lá có gốc tròn, thường xẻ 3 thuỳ, có cuống dài. Lá phía trên chìa hình chân vịt thành 3 dải nhỏ. Nhiều hoa nhỏ màu vàng nhạt, tụ họp thành cụm hoa gần giống hình ngù. Hoa có 5 lá đài, 5 cánh hoa, nhiều nhị xếp xoắn ốc, nhiều lá noãn rời cũng xếp xoắn ốc trên một đế hoa lồi, Mỗi lá noãn rời sẽ hình thành một quả bê riêng, tụ họp thành quả tụ.
Nơi mọc: Cây mọc hoang ở ruộng, bờ ao ở miền Bắc nước ta và Lào (cả đồng bằng và miền núi).
Trong toàn cây có chất protoanemonin. Hạt và rễ có anemonin.
Dịch của cây này gây kích ứng mạnh với da và niêm mạc. Ăn phải sẽ bị rát miệng, rát họng, sau đó sưng tấy, nuốt nước bọt khó khăn, ỉa chảy nhiều, đi ra phân màu đen, mùi khắm, có khi lẫn máu. Mạch đập chậm dần, khó thở, giãn đồng tử. Nếu bị nhiễm độc nặng có thể chết sau 10 giờ. Súc vật ăn phải cũng bị ngộ độc.
Dùng dung dịch thuốc tím 0,2 phần trăm để rửa dạ dày. Cho uống nước lòng trắng trứng hoặc bột mì quấy nhão và than hoạt. Tiêm truyền huyết thanh mặn hay ngọt. Nếu đau bụng nhiều có thể tiêm atropin Sulfat. Nếu chỉ viêm ngoài da và niêm mạc thì dùng nước sạch, hoặc dung dịch loãng của acid boric hay acid tanic để rửa.