
- Xét nghiệm thành phần của phân dê tìm hạt tinh bột, qua phản ứng Lugol cho màu xanh; tìm sợi thịt bằng soi kính hiển vi; phát hiện mỡ bằng phản ứng Sudan 3. Các xét nghiệm này chi có tính chất định tính. Để đánh giá chính xác khả năng hấp thu, mỡ người ta cho bệnh nhân ăn mỗi ngày 50g lipid trong 3 ngày liên tiếp, rồi định lượng mỡ trong phân. Bình thường <5g.
- Nghiệm pháp D-xylose: buổi sáng bụng đói cho bệnh nhân uống 25g, D-xylose trong 250ml nước (là loại đường chí được hấp thụ ở đoạn đầu ruột non). Đo đường xylose trong máu sau 2 giờ và xylose niệu sau 5 giờ. Bình thường D-xylose máu >250mg/l và D-xylose niệu sau 5 giờ >5g. Trị số này giảm trong teo vi nhung mao như trong bệnh Coeliac, hoặc cắt đoạn ruột non dài.
- Test Schilling: cho phép đánh giá sự hấp thu B12 liên quan đến việc thiếu yếu tố nội tại. Cho uống 0,5 microgam B12 Phóng xạ cobalt, sau khi đã tiêm trước đó 2 giờ 1.000 microgam B12 thường. Định lượng B12 phóng xạ trong nước tiểu: ở người bình thường là 15 - 40%; trong thiếu máu do thiếu B12 < 5%; trong thiếu máu do thiếu yếu tố nội tại hoặc cắt dạ dày toàn bộ, sau khi tiêm yếu tố nội tại thì tỉ lệ này sẽ gia tăng. Tỉ lệ này không tăng trong trường hợp rối loạn hấp thu B12 ở hồi tràng và trong nhiễm sán dây bothiocephalus. Test này bị biến đổi do suy thận, ỉa chảy, cường giáp, và (-) khi thiếu acidfolic.
- Độ thanh thải của ruột non với al-antitrypsin. Để khảo sát bệnh viêm ruột non xuất tiết. Protein này bị hủy bởi ph acid nhưng không bị thủy phân bởi các men ruột. Lượng thải ra trong phân trong 3 ngày là lượng tiết ra trong ruột non. Tỉ lệ nồng độ trong máu và trong phân là hệ số thanh lọc, bình thưòng <15ml/24giờ.
- Test lactose: để đánh giá sự thiếu men lactose. Thực hiện bằng cách ăn lactose và định lượng glucose máu mỗi 30 phút trong 2 giờ. Bình thường thủy phân lactose để cho glucose và galactose và gây tăng đường máu ít nhất 0,2g/l ( 1,1mmol):
- Test thở ra hydro sau khi cho ăn lactose: kết quả nhạy hơn, lactose không được hấp thu sẽ bị hủy. Bởi vì, khuẩn ruột và làm gia tăng lượng hydro thái ra trong hơi thở.
Thực hiện bằng cách cấy dịch thông hổng tràng, bình thường <106 vi khuẩn/ml. Hoặc test thở với glycocholat có C14 một sự nhiễm khuẩn sẽ khử liên kết, của muối mật và phóng thích sớm 14CO2.
- Đo thời gian vận chuyển đồng vị phóng xạ: cho phép đo được sự vơi dạ dày và làm đầy đại tràng, như vậy sẽ đo được thời gian vận chuyển qua ruột. Đo áp lực ruột bao gồm nghiên cứu 3 pha của phức hợp vận động.
- Điện cơ đồ: hoạt động điện cơ ruột non được ghi bằng một điện cực đặt trong lòng ruột. Thời gian vận chuyển qua từng đoạn, có thể đo trong quá trình vận chuyển của ruột non bằng cách tính thời gian xuất hiện chất màu đã được tiêm ở đoạn trên.
- Test thở cho phép đo chất lên men hơi khi để đại tràng do sự gia tăng hydro trong khí thở ra.
- Chụp baryt ruột non ít được thực hiện, vì thời gian baryt qua ruột kéo dài và do hình ảnh chồng chéo lên nhau, không đánh giá được thương tổn. Có thể chụp ruột non từng đoạn, nhất là đặt catheter theo dõi và bơm thuốc chụp từng đoạn, nhưng kết quả không nhạy và ít đặc hiệu, nên cũng ít được thực hiện.
- Camera ruột non.
Cần ống nội soi rất dài, chí thực hiện ở một số nước như Nhật Bản nhờ ống soi rất dài có gắn các vi thấu kính chuyên hình ảnh các vi sợi quang về máy camera khuếch đại đặt ở bên ngoài.
- Chụp nhuộm động mạch mạc treo.
Để đánh giá tình trạng chít hẹp động mạch gây ra bệnh cảnh viêm ruột do thiếu máu cục bộ, hoặc để phát hiện vị trí chảy máu sau khi dùng chất đồng vị phóng xạ Fe.