
Rau khúc còn có tên phật nhĩ thảo “thanh minh thảo”, tên khoa học là Gnaphalium indicum, thuộc họ Cúc. Cây rau khúc mọc hoang khắp nơi ở những ruộng khô. Lá khúc nếp dùng làm bánh khúc lá khúc tẻ dùng làm thuốc.
Theo Đông y, rau khúc có vị ngọt, hơi đắng, tính bình, không độc đi vào kinh phế. Có tác dụng hóa đàm, trừ phong hàn. Dùng chữa ho nhiều đờm, suyễn thở, cảm lạnh phát sốt, đau gân cốt, bạch đới, ung thũng.
Trị cảm sốt: Rau khúc 30g, gừng tươi 5 lát, hành 2 củ, sắc uống ngày một tháng,
Trị ho, viêm họng: Rau khúc 30g, củ rẻ quạt 6g, diếp cá 50g. Sắc uống ngày một tháng.
Trị hen suyễn; Rau khúc 30g, lá bồng bồng 20g. cam thảo đất 16 g, sắc uống ngày một tháng, chia 2-3 lần.
Trị tăng huyết áp: Rau khúc 30g, lá dâu 20g. Nấu canh ăn hàng ngày.
Trị chấn thương do va đập: Rau khúc lượng vừa đủ, giã nát, băng đắp nơi sưng đau
Trị rắn cắn: Giã nát lá rau khúc tươi, đắp vào chỗ rắn cắn.