(Vị thuốc hạ phẩm trong Thần nông bản thảo kinh)

Địa đản là toàn thân phơi khô của côn trùng địa đản họ Lytta, còn gọi là đỗ long. Thân màu xanh sậm đen, có chút sắc tím, bóng trơn, phần đầu lớn, mắt kép tròn màu nâu đen. Cánh màu đen tím pha chút lam. Bụng phần lớn lộ ra ngoài cánh.
Địa đản vị cay, tính hàn. Chủ trị sốt rét, khi lạnh khi nóng, cổ kết hạch vỡ mủ lâu không khỏi và lở loét ác tính, da thịt bị hoại tử, còn có thể phá tích tụ kết u, đồng thời điều trị trụy thai.
Địa đản vị cay nên tán hàn, vì vậy có tác dụng hoạt huyết hóa ứ; tính hàn có thể thanh nhiệt giải độc, vì vậy cũng là lương dược giải độc tán ứ, hơn nữa hiệu quả lại rất nhanh chóng. Trong lâm sàng, địa đản thường dùng trị bệnh kết sỏi; bụng có u xơ. Do địa đản có kịch độc, nên có thể ăn mòn hoại tử trong vết lở loét, thịt thừa trong mũi, tán kết khí, tiêu trừ vết loét, đào thải kết hạch.
Y học hiện đại nghiên cứu và chứng minh, địa đản có chất cantharidin, có tác dụng tán huyết trừ ứ, làm vỡ mọng nước, có thể trị ghẻ, vảy giống như da trâu, zonal thần kinh. Nhưng do có kịch độc, uống vào tuyệt đối không được quá liều lượng 0,3 - 0,6g. Người thể hư và phụ nữ có thai không được dùng, dùng ngoài với lượng thích hợp.
Có tác dụng tán huyết trừ ứ, làm vỡ mọng nước, có thể trị ghẻ, vảy giống như da trâu, zonal thần kinh.
Trị bệnh kết sỏi, u xơ vùng bụng.
Trị cổ kết hạch, giống như 2 ngón tay, kèm phát hàn nhiệt, thích nằm
Địa đản tán: Địa đản, hùng hoàng, can khương, thạch quyết minh, tục đoạn, rễ cây gai, long đởm thảo, mỗi loại 2,25g, tế tân 1,5g, đại hoàng 0,375g, cam thảo 0,75g. Các vị thuốc trộn đều nghiền thành bột. Mỗi lần dùng một lượng thích hợp đắp ngoài, mỗi ngày 4-5 lần.
Trị lở loét phát từ cổ dạng như hạt táo
Địa đản, dạ dày nhím, ban miêu, cẩu kỷ, mỗi loại 0,75g, phàn thạch, bạch truật, không thanh, đương quy, mỗi loại 1,5g, tế tân 3g, can ô não 3g. Các vị thuốc trên trộn lên nghiền bột, mỗi lần uống 1g với giấm, mỗi ngày 3 lần.