(Vị thuốc thượng phẩm trong Thần nông bản thảo kinh)

Tế tân là cây của hoa tế tân hoặc bắc tế tân, một loài thực vật thân cỏ sống lâu năm, họ mộc hương (Aristolo chiaceae). Vì rễ của nó nhỏ giống râu, vị cay, nên được gọi là “tế tân”. Dân gian thường gọi là “nhân sâm núi”, “vạn bệnh thảo".
Bản kinh có viết: Tế tân vị cay, tính ôn. Có thể chữa trị các bệnh như ho khan, thở gấp; đau đầu do cảm mạo phong hàn, khớp tứ chi co rút, đau nhức do phong thấp, da thịt tê bì mất cảm giác. Dùng lâu dài có tác dụng làm thông cửu khiếu, thân thể thoải mái, kéo dài tuổi thọ.
Đông y cho rằng: Tế tân có mùi thơm vị cay nồng, có thể phát tán khai khiếu. Dược tính ôn hòa, có tác dụng tán hàn. Công hiệu của tế tân được nói trong Bản kinh đều do đặc điểm vị cay tính ôn tạo nên. Vì vị cay, tính ôn có thể phát tán, nên có tác dụng chữa trị đau đầu do phong hàn, phong thấp, kết đờm, tụ khí trong lồng ngực, động kinh. Lại vì nó có thể tán nhiệt, phàm là miệng lưỡi lở loét, cổ họng sưng đau, đau răng do phong hỏa vượng cũng có thể chữa trị. Đồng thời, vị cay của tế tân có tác dụng tiết phế, những người bệnh bị ho, thở dốc do phong hàn đều có thể sử dụng. Vị cay có tác dụng bổ gan, vì vậy các chứng bệnh như gan khí không đủ, động kinh hay bệnh về mắt có thể dùng vị thuốc này để chữa trị. Vị đắng còn có thể nhuận táo, vì vậy thường dùng cho người bị bệnh âm kinh yếu, bệnh về tai hoặc táo bón. Tế tân trong Y học lâm sàng hiện đại được ứng dụng rộng rãi, thường được dùng để giải nhiệt, giảm đau, trị các bệnh do cảm cúm, phong thấp gây ra như đau đầu, phát sốt, sợ lạnh, các khớp toàn thân đau nhức. Ngoài ra, còn có tác dụng trị các bệnh về trúng phong ở đầu và mặt như đau đầu, đau đầu thông thường, viêm mũi do phong hàn hoặc phong nhiệt gây ra, đau răng do phong hàn, phong nhiệt, ngất do trúng phong. Tế tân còn có thể dùng để trị các bệnh ở động mạch vành, co thắt cơ tim, đau thắt lưng, gối, kết hạch ở vú, đau mắt dẫn đến chảy nước mắt. Bên cạnh đó, tế tân cũng có tác dụng trị liệu rất tốt chứng ho, hen suyễn.
Điều đáng chú ý là, tế tân còn có tác dụng gây tê. Lấy 1 nhánh tế tân cho vào miệng nhai, đầu lưỡi sẽ có cảm giác hơi tê, mất tri giác, một hồi lâu sau mới có thể khôi phục lại trạng thái ban đầu. Vì vậy, tế tân có thể gây tê cục bộ. Có nhiều thầy thuốc đã kết hợp dùng tế tân với các loại dược liệu khác làm thuốc gây tê trước khi nhổ răng, phương thuốc này cũng có kết quả rất rõ rệt. Tuy nhiên, tế tân có lượng độc tính nhất định, người xưa luôn thận trọng khi dùng, thậm chí có câu nói rằng: “Tế tân tuy tốt, nhưng dùng nhiều khí ứ trệ mà chết”. Vậy mà, thần y Trương Trọng Cảnh lại mạnh dạn sử dụng một lượng lớn tế tân để chữa bệnh. Theo phân tích và chứng minh của Y học hiện đại cho thấy, chỉ cần kết hợp dược liệu với lượng thích hợp sẽ có hiệu quả kỳ diệu.
Trị các chứng đau đầu do phong hàn, phong thấp, kết đờm, tụ khí trong lồng ngực, động kinh.
Trị miệng lưỡi lở loét, cổ họng sưng đau, đau răng.
Trị các bệnh ở động mạch vành, co thắt cơ tim, đau thắt lưng, gối, kết hạch ở vú, đau mắt dẫn đến chảy nước mắt.
Trị đau đầu, phát sốt, sợ lạnh, đau nhức xương khớp, toàn thân do phong hàn cảm mạo gây ra.
Trị trúng phong, bất tỉnh nhân sự
Tế tân nghiền nhỏ và thổi vào mũi. Trị hư hàn, không ăn uống được Tế tân (bỏ lá) 15,6g, đinh hương 7,8g. Các vị thuốc trên tán nhỏ, mỗi lần dùng 3g uống với nước sôi.
Trị chứng ngang ngược câm ở trẻ
Tân tế, lôi quế mỗi loại một phần. 2 vị thuốc trên nghiền nhỏ, mỗi lần lấy một ít cho vào trong miệng trẻ.
Trị miệng lưỡi lở loét
Tế tân, hoàng liên, mỗi thứ một phần, nghiền nhỏ, bôi vào chỗ đau. Nếu trị chứng lở loét miệng ở trẻ có thể dùng giấm trộn với tế tân rồi đắp vào rốn.
Trị răng lợi sưng đau
Nếu như trong miệng lở loét, đun tế tân thành dạng nước đặc, ngậm trong miệng nhiều lần đến khi nước lạnh thì nhổ ra.
Tiêu thịt thừa trong mũi
Lấy bột tế tân thổi vào trong mũi.
Chữa bệnh điếc
Cho bột tân tế hòa tan trong sáp nến, nặn thành viên nhỏ. Mỗi lần lấy 1 viên nhét vào lỗ tai.