(Vị thuốc hạ phẩm trong Thần nông bản thảo kinh)

Ô đầu là một loại rễ cái thuộc nhóm thực vật ô đầu, họ mao lương. Nó được phân làm 2 loại là xuyên ô và thảo ô. Xuyên ô thường có ở Tứ Xuyên, do người dân trồng; thảo ô lại được sản xuất ở khắp các vùng trên đất nước Trung Quốc, đa số là loài mọc hoang dại.
Ô đầu vị cay, tính ôn. Chủ trị trúng phong, cảm lạnh, ngoài ra nó còn có thể tiêu trừ bệnh phong thấp với triệu chứng hàn thấp là chủ yếu, phá bỏ các khối u tích tụ và triệu chứng phát sốt, sợ lạnh.
Ngày nay, hầu hết các quan điểm đều cho rằng, ô đầu vị cay, đáng, tính nhiệt, có độc tính lớn, quy về tâm, tỳ, phế kinh. Từ các triều đại trước thời nhà Minh, xuyên ô và thảo ô được gọi chung là ô đầu, bắt đầu từ Bản thảo cương mục mới có sự phân tách xuyên ô và thảo ô. Công hiệu và tính vị của 2 loại cây này đều có công dụng khứ thấp trừ phong, tán hàn chỉ thống, có thể chữa tê đau do hàn thấp, đau đầu do trúng phong, đau nửa đầu, đau lạnh bụng, đau do chấn thương, gãy chân, hàn thấp âm hư và chứng đột quỵ, méo miệng do đột ngột trúng phong gây ra. Cho nên, từ xưa đến nay 2 loại này vẫn được dùng kết hợp vối nhau. Người xưa cho rằng, thảo ô là loài mọc hoang dại, trải qua năm tháng gió tuyết; xuyên ô đa số là do người dân trồng, ít khi trải qua sương gió, vì thế công hiệu của thảo ô mạnh hơn xuyên ô. Căn cứ vào thực tiễn lâm sàng hiện đại nghiên cứu và chứng minh công dụng giảm đau của thảo ô còn hơn cả xuyên ô; nhưng đối với việc tiết phong hàn mà nói, thảo ô không giống như xuyên ô. Độc tính của thảo ô lớn hơn xuyên ô, cho nên lượng thuốc dùng phải ít hơn xuyên ô một chút.
Trong ô đầu có hàm lượng độc tính lớn, nếu lọc ô đầu lấy nước trong, phơi khô thành cao, gọi là xạ võng, độc tính càng mạnh. Thợ săn ngày xưa thường dùng xạ võng bôi vào đầu mũi tên để săn bắn chim thú. Trong lâm sàng, khi dùng ô đầu cần rất thận trọng, lượng dùng thường chỉ 3 - 10g, nhưng không thể dùng với phụ tử. Chính vì ô đầu có độc tính lớn, nếu sử dụng với lượng phù hợp sẽ khó có hiệu quả như mong đợi giống các loại dược liệu khác. Thời xưa, một số nhà y học chuyên dùng ô đầu, đã mạnh dạn dùng liều lượng lớn để chữa các căn bệnh nan y, thực sự đã cho thấy công hiệu rõ rệt. Điều này chính là: “Lương y chuyên dùng phương thuốc độc dược’' mà cổ nhân đã từng nói.
- Có thể chữa ho, hen suyễn, phá bỏ các khối u tích tụ và chứng phát sốt, sợ lạnh.
- Có công dụng khứ thấp, trừ phong, tán hàn chỉ thống, có thể chữa tê đau hàn thấp, đau đầu, đau nửa đầu, đau lạnh bụng, gãy chân, hàn thấp âm hư và chứng đột quỵ, méo miệng do đột ngột trúng phong gây ra.
- Chữa bệnh phong , thấp với triệu chứng hàn thấp là chủ yếu.
Trị trúng phong hôn mê bất tỉnh, méo miệng
Lấy xuyên ô đầu sống, phụ tử sống, bỏ vỏ, mỗi loại 15,6g, tiếp đó dùng sinh nam tinh 31g, sinh mộc hương tươi 7,8g. Mỗi lần lấy 15g hỗn hợp trên, cho thêm 10 miếng gừng tươi và 480ml nước nấu lên.
Trị méo miệng, nói ngọng, đi đứng không vững
Xuyên ô đầu (bỏ vỏ), ngũ linh chi, mỗi loại 156g. Hỗn hợp trên nghiền nhỏ, cho thêm long não, xạ hương vào uống với rượu ấm, ngày uống 3 lần.
Tri tê bì do phong hàn
Gạo thơm nấu thành 240ml cháo, cho vào 12g bột ô đầu tươi, đun nhỏ lửa, cho thêm 1 thìa nước gừng tươi, mật ong 3 thìa, uống khi đói. Cũng có thể cho thêm bột bo bo 6g.
Trị bệnh co giật, chảy nước miếng ở trẻ nhỏ
Xuyên ô đầu tươi (bỏ vỏ) 31g, 10 con bọ cạp (bỏ đuôi). Hỗn hợp trên chia làm 3 lần uống, mỗi lần dùng 240ml nước và 7 miếng gừng tươi nấu lên uống.
Trị thóp lõm ở trẻ nhỏ
Ô đầu (tươi, bỏ vỏ) 6g, hùng hoàng 2,5g. Hỗn hợp trên nghiền nhỏ dùng rễ hành giã nát nặn thành miếng đắp lên thóp trẻ nhỏ.
Trị đau đầu kinh niên
Xuyên ô, thiên nam tinh, mỗi loại một ít. Hỗn hợp trên nghiền nhỏ trộn đều với nước gừng bôi lên huyệt Thái dương.
Trị ù tai
Ô đầu (đốt cháy), xương bồ, mỗi loại một ít. Hỗn hợp trên nghiền nhỏ tẩm bông rồi nhét vào tai. Ngày thay 2 lần thuốc.
Trị mụn nhọt độc sưng
Xuyên ô đầu (rang), hoàng bá (rang), mỗi loại 31g. Hỗn hợp trên nghiền nhỏ, trộn đều với nước miếng bôi lên vết sưng, chừa phần đầu. Khi thuốc khô lại lấy nước vo gạo thấm ướt để thay thuốc khác.