(Vị thuốc hạ phẩm trong Thần nông bản thảo kinh)

Dự thạch còn gọi là độc sa. thanh phân thạch, lập chế thạch, cố dương thạch, là khoáng thạch của độc sa, loại khoáng vật của thạch tín. Thành phần chủ yếu là oxit sắt của thạch tín, lưu huỳnh.
Dự thạch vị cay, tính nhiệt. Chủ trị phát sốt, sợ lạnh, hạch kết ở cổ vỡ ra chảy nước, trị teo cơ, trị bệnh phong thấp, khối u cứng trong bụng.
Về tính vị của dự thạch người xưa luôn cho rằng, nó có hàm lượng độc tính cao. Trong sách Sơn hải kinh đã sớm ghi chép về độc tính của vị thuốc này. Các nhà y học đời sau còn nói nó “làm chân tay co quắp”, thậm chí trong một số điển tịch y học có khuếch đại rằng: “Sinh ra ở núi, cây cối không sinh sống được, sương tuyết không đọng. Sinh ra ở nước nhưng nước lại không đóng băng, nên có thể thấy tính nhiệt của nó rất cao, độc tính cũng vô cùng mạnh”. Đông y sử dụng độc tính của nó để làm thuốc bôi ngoài da, chữa: “Thử lũ hàn nhiệt, lở loét, cơ chết”... Ngoài ra, vị cay của dự thạch có thể phát tán, hành khí, hành huyết; tính nhiệt lớn có thể tiêu trừ hàn ngưng tích tụ, cho nên nêu dùng trong thời gian dài có thể tiêu trừ các u kết trong bụng, đàm khí tích tụ, có công hiệu chữa bệnh phong hàn tê thấp do hàn khí làm đông máu.
Nhưng, vì dự thạch tính đại nhiệt, sẽ làm hư hao tinh dịch, cho nên những người dương thịnh âm suy không nên uống. Hơn nữa, dự thạch “có tính độc mạnh, khi uống phải hết sức cẩn thận, nếu có thể thì nên thay thuốc khác, cho dù dùng bôi ngoài cũng phải tuân thủ đúng quy định liều lượng thuốc".
- Tiêu trừ khối u trong ruột, đàm khí tích tụ, có công hiệu chữa bệnh phong hàn tê thấp do hàn khí làm đông máu.
- Phát tán, hành khí, hành huyết, có thể tiêu trừ hàn ngưng tích tụ.
- Bôi bên ngoài có thể cầm được vết loét, sinh da non.
Trị hàn nhiệt sốt rét, tỳ sưng to
Dự thạch nghiền nhỏ, nặn thành hạt đậu xanh, mỗi lần uống 1 viên với nước sôi. Nếu không thấy hiệu quả thì tăng thêm liều lượng vừa phải.