(Vị thuốc hạ phẩm trong Thần nông bản thảo kinh)

Bạch cập là thân củ của cây bạch cập, loài thực vật thân cỏ sống lâu năm, thuộc họ lan, cũng được gọi là cam căn, bạch căn. Bề ngoài có màu trắng xám hoặc màu trắng ngà, có một số vòng khoanh tròn giống như hình trái tim và những vết màu nâu điểm xuyết trên rễ. Cây chủ yếu sinh trưởng ở vùng Quý Châu, Tứ Xuyên, Hồ Nam, Hồ Bắc, An Huy.
Bạch cập vị đắng, tính bình. Chủ trị những vết mụn nhọt sưng tấy, lở loét ác tính, âm tính bị hao tổn, cơ bắp tê bì hoại tử, tà khí uất kết trong dạ dày, ngăn chặn phong tà xâm nhập vào cơ thể, tứ chi mềm yếu không có lực.
Ngày nay, người ta cho rằng: Bạch cập vị đắng, ngọt, chát, tính hơi hàn, quy về phế, vị và can kinh. Vì vị đang nên có thể tiết hàn nhanh, vị ngọt bổ dưỡng, vị chát thu liễm, cho nên có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lên da non, trị thương, cầm máu, tiêu sưng tán kết. Từ thời cổ, bạch cập đã được coi là dược liệu quý của các loại bệnh về máu, đặc biệt rất tốt trong việc điều trị chứng xuất huyết ở phổi và dạ dày. Trong lâm sàng hiện đại, nó được dùng để điều trị các chứng nôn ra máu; nôn ra máu do phế vị hư hàn gây ra. Ngoài ra, còn dùng để điều trị các chứng bệnh như: Nôn ra máu do giãn khí quản, phổi kết hạch, ho ra máu và các chứng bệnh về máu khác. Điều hiếm thấy là vị thuốc này có thể thường xuyên sử dụng trong một thời gian dài mà không có tác dụng phụ. Bạch cập đi vào phế kinh, mà phế lại
chủ về lông da, cho nên bạch cập có tác dụng tiêu sưng, kích thích lên da non. Trong lâm sàng hiện đại, nó thường được dùng để trị các vết mụn nhọt sưng tấy, vết thương nhiễm độc và thúc đẩy miệng vết thương mau liền. Niêm dịch có trong bạch cập có vị ngọt, có thể bổ khí ích phổi, là vị thuốc tốt để điều trị thương tổn, đặc tính này còn có thể tăng cường khí ở vị kinh tức có thể trừ đi “tà khí trong dạ dày” được nói đến trong Bản kinh.
Người đời sau đã phát huy được công hiệu của bạch cập vượt xa những điều trong phạm vi chủ trị mà Bản kinh đề cập đến. Bản thảo cương mục có những ghi chép toàn diện về công hiệu của bạch cập: Có thể trị chứng kết nhiệt không tiêu, liệt âm, nổi mụn bọc trên mặt, giúp cho các cơ trở nên linh hoạt, trấn tâm an thần, kiết lỵ ra máu, bệnh động kinh, tê bì do trúng phong, đau mắt đỏ, sốt rét, tràng nhạc trên lưng, những vết thương do kim loại, bỏng lửa, kích thích lên da non, giảm đau. Bạch cập còn có công hiệu làm đẹp, giúp da dẻ trắng trẻo, mịn màng.
Y học hiện đại nghiên cứu và cho rằng, bạch cập có các thành phần như tinh bột, đường glucose, tinh dầu bay hơi và chất niêm dịch có tác dụng cầm máu cục bộ rất tốt, có công hiệu trị liệu tốt đối với dạ dày, tá tràng bị thủng, còn có tác dụng ức chế đối với vi khuẩn lao hình que. Tuy nhiên, liều lượng thường dùng của bạch cập là 10 - 15g, không nên dùng quá liều, cấm kỵ dùng với ô đầu.
Có công hiệu làm đẹp, giúp da dẻ trắng trẻo mịn màng.
Có công hiệu trị liệu tốt đối với dạ dày, tá tràng bị thủng, còn có tác dụng ức chế đối với vi khuẩn lao hình que.
Trị chứng nôn ra máu do phổi, dạ dày tổn thương, nôn ra máu do giãn khí quản, phổi kết hạch, ho ra máu và các chứng bệnh về máu khác.
Trị mụn nhọt sưng tấy. thúc đẩy vết thương mau chóng liền miệng.
Trị chảy máu cam không ngừng
Cho nước bọt trộn với bột bạch cập, bôi lên trên cánh mũi. Mặt khác kết hợp uống 3g bạch cập, lập tức có thể cho hiệu quả.
Trị đau tim
Bạch cập, vỏ thạch lựu, mỗi loại 6g, nghiền nhỏ, cho thêm mật ong vào trộn đều, nặn thành viên bằng hạt đậu. Mỗi lần dùng 3 viên, dùng canh giấm ngải để uống.
Trị sa tử cung
Bạch cập, xuyên ô. Các vị thuốc trên nghiên nhỏ, dùng túi vải mỏng bọc 3g nhét vào trong âm đạo, cảm thấy trong bụng nóng thì dừng lại, 1 ngày dùng 1 lần.
Trị mụn nhọt độc
Dùng bột bạch cập 1,5g, hòa vào nước chờ khi nước trong, chắt hết nước, lấy thuốc quết lên trên giấy dày rồi dán vào chỗ đau.
Trị gãy xương do ngã
Dùng bột bạch cập 6g, pha với rượu để uống.
Trị vết thương do kim loại
Bạch cập, thạch cao (nung). Các vị thuốc trên nghiền nhỏ, bôi lên miệng vết thương.
Trị các chứng nứt nẻ tay, chân
Bột bạch cập hòa cùng với nước, bôi lên vùng da bị nứt, tránh tiếp xúc với nước.
Trị những vết thương do bỏng lừa
Dùng bột bạch cập thêm dầu bôi lên vùng da bị bỏng.