
Thần nông bản thảo kinh có thứ tự thành một hệ thống, là cuốn toàn thư tổng luận, quy nạp 13 lý luận. Dược học, trước tiên là lý luận về phương tễ "quân, thần, tá, sứ", khái quát 7 loại dược liệu "đơn hành", "tương thu", "tương sứ", "tương úy", "tương ố", "tương phản", "tương sát" phối hợp với 5 tình huống, gọi là thất tình. Ngoài còn chỉ rõ các hình dạng thuốc hoàn, tán, thang, cao có sự ảnh hưởng tới hiệu quả điều trị và bệnh chứng.
Nền y dược cổ đại Trung Quốc chứa đựng khối lượng tri thức vô cùng sâu sắc và uyên bác. Trong cuốn sách Thần Nông bản thảo kinh phân làm 3 phẩm thuốc thượng, trung, hạ, ghi lại 365 vị thuốc, tên gọi của mỗi loại thuốc tùy vào: Tính vị, cố độc hay không, công dụng chữa trị, sự khác biệt, hoàn cảnh sinh trưởng và theo từng mùa vụ mà thuật lại tường tận. Đây là thành quả kinh nghiệm của ngành Dược học, đã được lịch sử Y học thế giới công nhận. Trên thực tế, con người thời cổ đại đã biết và sử dụng thuốc nhiều hơn so với con số 365 vị này. Từ rất sớm, trong thời kỳ Chiến quốc, thần y Biển Thước đã phân biệt và biết đến hàng trăm loại thuốc, thậm chí còn tinh thông thuật châm cứu, bấm huyệt.
Thượng dược nhất bách nhị thập chủng vị quán, chủ dưỡng mệnh dĩ ứng thiên, vô độc, đa phục cửu phục bất ,thương nhân, dục khinh thân ích khí, bất lão diên niên, bản thượng kinh.
Giải nghĩa: Các vị thuốc thuốc hàng thượng đẳng có 120 loại, được gọi là quân dược. Công hiệu chủ yếu là điều dưỡng bản mệnh, tạo sự tương ứng, hòa hợp với trời, không có độc tính, có thể dùng với liều lượng lớn trong thời gian dài không làm tổn thương tới sức khỏe. Nếu muốn thân thể nhẹ nhàng, khí lực tăng cường tuổi thọ được kéo dài thì có thể căn cứ vào quyển thượng của Bản kinh.
Trung dược nhất bách nhị thập chủng vi thần, chủ dưỡng tính dĩ ứng nhân, vô độc, hữu độc, châm chước kỳ nghi, dục át bệnh bổ hư luy giả, bản trung kinh.
Giải nghĩa: Các vị thuốc thuộc hàng trung đẳng có 120 loại, được gọi là thần dược. Công dụng chủ yếu là điều dưỡng tính tình, tạo sự tương ứng, hòa hợp với con người. Một số loại thuốc này có tính độc, khi sử dụng cần xem xét có thích hợp với cơ thể không. Nếu như, muốn loại trừ bệnh tật, tăng cường sức khỏe cần căn cứ vào quyển trung của Bản kinh.
Hạ dược nhất bách nhị thập ngũ chủng vị tá sứ, chủ trị bệnh dĩ ứng địa, đa độc, bất khả cửu phục, dục trừ hàn nhiệt tà khí, phá tích tụ, du bệnh giả, bản hạ kinh.
Giải nghĩa: Các vị thuốc thuộc hàng hạ đẳng có 125 loại, được gọi là tá sứ dược. Công dụng chủ yếu là điều trị bệnh tật, tạo sự tương ứng, hòa hợp với đất. Trong đó, đa số là có tính độc không thể sử dụng lâu dài. Muốn dùng để trừ tà khí nóng, lạnh; tiêu tán và tụ hợp, điều trị bệnh tật của con người có thể dựa vào quyển hạ của Bản kinh.
Tam phẩm hợp tam bách lục thập ngũ chủng, pháp tam bách lục thập ngũ độ. Nhất độ ứng nhất nhật, dĩ thành nhất tuế, bội kỳ số hợp thất bách tam thập danh dã.
Giải nghĩa: 3 hạng phẩm thuốc này tổng cộng có 365 vị thuốc. Dựa theo hành độ của mặt trời, mặt trăng và các sao trong 365 ngày mà tính. Dùng 1 hành độ tương ứng với 1 ngày, tính đủ 1 năm, cộng lại vừa đủ 730 loại.
Dược hữu quân thần tá sứ, dĩ tương tuyên nhiếp hợp hòa giả, nghi dụng nhất quân, nhị thần, ngũ tá, hựu khả nhất quán tam thần cửu tá sứ dã.
Giải nghĩa: Dược liệu phân làm 3 loại quân, thần, tá sứ. Phương pháp lựa chọn các loại thuốc không giống nhau, như hoàng đế hạ chiếu thư là quân dược, phò tá cho hoàng đế là thần dược, phối hợp được giữa quân và thần là tá sứ dược, có thể phối hợp nhịp nhàng giữa tính năng của các loại thuốc là sứ dược. Phương pháp phối hợp với từng loại thuốc: 1 vị quân dược, 2 vị thần dược, 3 vị tá dược, 5 vị sứ dược. Cũng có thể, dùng 1 vị quân dược, 3 vị thần dược, 9 vị tá sứ dược.
Dược hữu âm dương phối hợp, tử mẫu huynh đệ, căn kinh hoa thực thảo thạch cốt nhục.
Giải nghĩa: Dược vật có nguyên tắc kết hợp thuộc tính âm dương của nhau. Chúng có quan hệ theo kiểu tình mẫu tử, huynh đệ, như giữa gốc và thân cây, hoa và quả, cỏ và đá, xương và thịt.
Hữu đan hành giả, hữu tương tu giả, hữu tương sứ giả, hữu tương úy giả, hữu tương ố giả, hữu tương phản giả, hữu tương sát giả. Phàm thử thất tình hòa hợp thị chi, đương dụng tương tu tương sứ giả lương, vật dụng tương ố tương phản giả. Nhược hữu độc nghi chế, khả dụng tương úy tương sát giả, bất nhĩ, vật hợp dụng dã.
Giải nghĩa: Mỗi loại thuốc có vị dùng đơn lẻ, có vị dùng thúc đẩy, tác động, sợ hãi, ghét bỏ, xung đột, tiêu trừ độc tính cho nhau. Như vậy có được 7 tình huống. Khi sử dụng cần suy xét đến 7 tình huống này. Nên lựa chọn loại có tính thúc đẩy kết hợp với loại thuốc có tính tác động lẫn nhau. Như vậy, có thể đạt đến hiệu quả tốt nhất. Không nên dùng loại ghét bỏ kết hợp với loại xung đột. Nếu như thuốc có tính độc, hàm lượng đủ gây tử vong cho người bệnh, có thể kết hợp thuốc loại bỏ tính độc để hòa giải. Nêu không thuộc vào các tình huống này, không thể phối hợp sử dụng.
Dược hữu toan, hàm, cam, khổ, tân ngũ vị, hựu hữu hàn, nhiệt, ôn, lương Tứ khí cấp hữu độc vô độc, âm can bão can, thúi trị thời nhật, sinh thục, thượng địa sở xuất, chán ngụy trần tán, tịnh các hữu pháp.
Giải nghĩa: Dược liệu có tính chua, mặn, ngọt, đắng, cay. 5 vị này còn có hàn, nhiệt, ôn, lương chia ra thành Tứ khí và có độc hay không độc. Có loại thuốc thì thích hợp phơi ở nơi râm mát, khô ráo; có loại thì thích hợp phơi dưới ánh nắng mặt trời. Vì thế, khi thu hái, gia công, chế biến cần có sự điều chỉnh thích hợp theo mùa tháng, chia thành chưa trưởng thành hay trưởng thành. Sự sinh trưởng địa lý của cây thuốc cũng cần phân biệt thật giả, mới hay cũ, đồng thời vị thuốc khác nhau thì có phương pháp gia công khác nhau.
Dược tính hữu nghi hoàn giả, nghi tán già, nghi thủy chủ giả, nghi tửu tâm giả, nghi cao tiên giả, diệc hữu nhất vật kiêm nghi giả, diệc hữu bất khả nhân thang tửu giả, tịnh tùy dược tính, bất đắc vi việt.
Giải nghĩa: Tính vị của dược liệu thích hợp chế thành dạng thuốc viên, lại có trường hợp thích hợp làm thuốc dạng tán, có loại dùng với nước nóng, có loại ngâm rượu, có loại nấu thành cao. Còn có phương pháp từ một loại dược liệu tạo ra mấy loại khác, cũng có loại không thể dùng với nước nóng và ngâm với rượu. Khi chế tác cần dựa vào tính chất không đồng nhất của thuốc mà tiến hành xử lý, không thể vi phạm các nguyên tắc của quy trình bào chế.
Phàm dục trị bệnh, tiên sát kỳ nguyên, tiên hầu bệnh cơ. Ngũ tạng vị hư, lục phù vị kiệt, huyết quản vị loạn, tinh thần vị tán, phục dược tát hoạt. Nhược bệnh dĩ thành, khả đắc bán dũ, bệnh thế dĩ quá, mệnh tương nan toàn.
Giải nghĩa: Trước khi điều trị bệnh, cần kiểm tra nguyên nhân gây bệnh, chẩn đoán nguyên nhân mấu chốt của bệnh. Nếu như, ngũ tạng người bệnh không hư tổn, lục phủ không suy nhược, huyết quán không tán loạn, tinh thần không ly tán, như vậy sau khi dùng thuốc bệnh tình nhất định sẽ thuyên giảm. Nếu như bệnh đã nguy cấp, chỉ có một nửa hy vọng chữa trị, tính mệnh rất khó bảo tồn.
Nhược dụng độc dược liệu bệnh, tiên khởi như thử túc, bệnh khứ tức chỉ, nhược bất khứ bội chi, bất khứ thập chi, thủ khứ vị độ.
Giải nghĩa: Nếu như sử dụng độc dược để điều trị bệnh, lúc bắt đầu sử dụng, lượng thuốc dùng chỉ vẻn vẹn như hạt thóc, khi bệnh tật được tiêu trừ thì ngừng dùng thuốc. Nếu như bệnh không chữa được, có thể tăng thêm liều dùng. Nếu như bệnh không khỏi tăng thêm 10 lần, lấy việc trừ bệnh làm tiêu chuẩn.
Trị hàn dĩ nhiệt dược, trị nhiệt dĩ hàn dược, ẩm thực bất tiêu, dĩ thổ hạ dược; quỷ chú, cô độc dĩ độc dược; ung thũng sang lựu dĩ sang dược; phong thấp dĩ phong thấp dược. Các tùy kỳ sở nghi.
Giải nghĩa: Điều trị bệnh thương hàn nên dùng thuốc có tính ôn, nhiệt; điều trị những bệnh nóng thì dùng thuốc tính hàn, lương; ăn uống không tiêu hóa được có thể dùng thuốc nôn, tả. Bị tà ma, trùng đốt có thể dùng độc dược. Bị phù thũng, u bướu có thể dùng thuốc trị đau. Bệnh phong thấp thì dùng thuốc phong thấp, cần căn cứ vào dược tính trị liệu thích hợp với từng bệnh chứng.
Bệnh tại hung cách dĩ thượng giả, tiên thực hậu phục dược. Bệnh tại tâm phục dĩ hạ giả, tiên phục dược nhi hậu thực. Bệnh tại tứ chi huyết mạch giả, nghi không phục nhi tại đán. Bệnh tại cốt tủy giả, nghi bão mãn nhi tại dạ.
Giải nghĩa: Bệnh trên cơ ngực, nên ăn trước khi uống thuốc. Bệnh ở phần dưới ngực và bụng, nên uống thuốc trước khi ăn. Bệnh ở tứ chi huyết mạch thì cần uống thuốc khi chưa ăn sáng. Bệnh ở xương cốt nên ăn no và uống thuốc vào đêm khuya.
Phù đại bệnh chi chủ, hữu trúng phong, thương hàn, ôn ngược, trung ác hoắc loạn, đại phúc thủy thũng, tràng tích hạ lợi, đại tiểu tiện bất thông, bí truân, thượng khí, khái nghịch, hu thổ, hoàng đản, tiêu khát, lưu ẩm, tích thực kiên tích trưng hà, kinh tà, điên, giản, quỷ chú, hầu tê, xỉ thống, nhĩ lung, mục manh, kim sáng, oa chiết, ung thũng, ác sang, trĩ, lậu, anh lậu, nam nữ ngũ lao thất thường, hư phiếm luy sấu, nữ tù đới hạ, băng trung, huyết bế, trùng sà cổ độc sở thương, thử giai đại lược, tông triệu. Kỳ gian biến cần chi tiết, các nghi y đoan tự dĩ thủ chi.
Giải nghĩa: Bệnh nghiêm trọng chủ yếu như tai biến mạch máu não, thương hàn, nóng lạnh; sốt rét, dịch tả, bụng trướng, tiêu chảy, đại tiểu tiện không thông, chứng thận tích, bốc khí, ho hen, nôn mửa, hoàng đản, tiêu khát (đái tháo đường), lưu ẩm (prolonged fluid retention), tích thực, trưng hà, kinh tà, động kinh, quỷ chú, viêm họng, đau răng, tai điếc, mắt mờ, tổn thương do kim loại, gãy chân, mụn nhọt, đau ác tính, trĩ, bệnh lậu, hầu kết hạch, ngũ lao thất thương ở nam giới, xanh xao, gầy gò, bệnh phụ khoa, băng huyết, bế kinh, các loài trùng độc gây tổn thương. Đây là một số chứng bệnh chủ yếu, trong sách này có trình bày sơ qua tác nhân gây bệnh và phương pháp trị liệu. mỗi chứng bệnh đều có thể tìm được dược liệu thích hợp để điều trị.