
Khi khám bệnh, các thầy thuốc đều ghi lại các triệu chứng, tên của bệnh, quá trình mắc bệnh và điều trị của bệnh nhân v.v..., cái đó gọi là “Bệnh sử" cũng có người gọi là “Bệnh án" và “Bệnh lịch". Đó là căn cứ để cho bác sĩ chân đoán và điều trị bệnh, cũng là những tài liệu quan trọng để nghiên cứu y học. Bạn có biết ai là người sáng lập ra hồ sơ bệnh án sớm nhất trên thế giới không? Đó là danh y Truân Ứ Y ở thời Tây Hán. Loại hồ sơ bệnh án này lúc bấy giờ gọi là “Chân tịch"
Truân Ứ Y sinh năm 205 trước công nguyên là người ở Lâm Truy nước Tề. Vì ông đã từng làm Thái thương Trưởng cửu Quốc khố nước Tề cho nên mọi người tôn kính gọi ông là “Thương Công".
Thương Công nhà rất nghèo, ông đã tận mắt nhìn thấy cảnh nhiều người do không có tiền chữa bệnh mà phải chết oan uổng, vì thế ngay từ nhỏ ông đã quyết chí học nghề y để chữa bệnh cho những người nghèo khổ, khi lớn lên ông đã sưu tập các bài thuốc hay miệt mài nghiên cứu và thử khám chữa cho bệnh nhân, việc làm của ông có lúc đạt được kết quả nhưng cũng có lúc không thành công, vì thế ông ý thức được rằng: chỉ có dựa vào tự học thì chưa đủ, cần phải tìm thầy học nghề.
Có một lần ông nghe nói ở Truy Xuyên có một vị thầy thuốc tên là Công Tôn Quang, muốn truyền lại những bài thuốc xưa cho người khác, Thương Công tràn đầy phấn khởi lập tức lên đường tìm thầy học hỏi.
Thương Công vượt xa nghìn dặm để tìm thầy và cảm kích thành ý của Thương Công, Công Tôn Quang đã nhạn Thương Công làm học trò, truyền đạt lại những "bí quyết của nghề y. Sau một thời gian, Thương Công học thuộc những bài thuốc cổ mà Công Tôn Quang đã dạy, nhưng ông vẫn phục dịch Công Tôn Quang như trước và vẫn tiếp tục khiêm tốn học hỏi.
Vào một đêm mát trời, họ cùng nhau ngồi quanh ngọn đèn dầu nghiên cứu một bài thuốc cổ, Thương Công nói lên ý kiến của mình, Công Tôn Quăng nghe xong vỗ tay một cái và nói: “Tốt, con qua là một nhân tài khó tìm thấy, sau này tất sẽ thành một danh y. Đáng tiếc là học thức của ta có hạn, chẳng còn gì để chỉ bảo" cho con nữa".
“Đệ tử đã nhận được ở tiên sinh nhiều điều hữu ích." Thương Công đã cảm kích nhìn Công Tôn Quang và nói như vậy.
“Không" Công Tôn Quang nhìn ra cửa sổ nói như dặn dò: "Thôi như thế này nhé, ta giới thiệu con đến chỗ anh trai cùng cha khác mẹ của ta là Công Thừa Dương Khánh để học sâu hơn. Sự hiểu biết của ông ấy ta còn thua kém xa, đơn thuốc mà ông ấy kê vô cùng đặc biệt và linh nghiệm, hồi còn trẻ, ta định theo ông ta để học, nhưng ông ấy bảo ta không có năng khiếu về việc này. Ông ấy không nhận bất kỳ ai vào làm học trò đâu, nhưng mà con thông minh khác người, lại chịu khó miệt mài nghiên cứu, ta tin rằng ông ấy sẽ nhận con".
Thương Công không ngờ người mà mình luôn ngưỡng mộ là Công Thừa Dương Khánh lại chính là anh trai của Công Tôn Quang, hôm nay lại được Công Tôn Quang mách bảo quả là niềm vui sướng ngoài ước muốn.
Năm đó, Thương Công vừa tròn 26 tuổi, lại lên đường tìm đến Công Thừa Dương Khánh để học thêm. Với thái độ ham học và khiêm tốn, Thương Công đã chiếm được cảm tình của Công Thừa Dương Khánh, vị thầy thuốc lúc này đã ngoài 70 tuổi. Công Thừa Dương Khánh đã tận tình truyền lại cho Thương Công những bí quyết của các bài thuốc cổ truyền mà ông đã tích lũy trong suốt cuộc đời, mà không phải với ai ông cũng chỉ dạy như thế. Sau ba năm miệt mài đèn sách, y thuật của Thương Công tiến bộ vượt bậc. Ông đã tạm biệt người thầy đáng kính trọng và ra đi tự mình độc lập hành nghề y.
Khi khám bệnh, Thương Công có thói quen là ghi chép lại họ tên, địa chỉ, triệu chứng bệnh, tên bệnh, quá trình điều trị của bệnh nhân v.v... Ông gọi những số liệu ghi chép đó là “Chẩn tịch". Có điều đáng tiếc là đại bộ phận những chẩn tịch đó đã thất lạc, chỉ 25 quyển còn được giữ lại, trong đó có ghi lại cách khám bệnh của Thương Công như thế nào.
Có một lần, trong một bữa tiệc, Thương Công gặp em trai của Tề Vương Hậu là Tống Kiến, nhìn thấy sắc mặt của Tống Kiến khô xám, ông đã nói với Tống Kiến: “Tống Kiến Quân, ngài bị bệnh rồi đấy! Bốn, năm hôm trước lưng của ngài đau không đứng thẳng được và tiểu tiện không thông, nếu không điều trị sớm bệnh sẽ biến chứng vào thận. Hiện nay bệnh chưa vào đến ngu tạng, hãy nhanh chữa bệnh đi!"
Tống Kiến vô cùng kinh ngạc và nói: “Tiên sinh quả là thần y, lưng của ta đau mỏi không chịu được. Cách đây năm hôm, có người thi vác hòn đá, ta cũng bước lên thử, không ngờ hon đá nặng quá, ta đành phải bỏ xuống. Đến tối, ta cảm thấy tiểu tiện không thông, tuy đã uống một số thuốc nhưng cho đến nay vẫn chưa thấy đỡ tí nào. Tiên sinh làm sao có thể biết được?”
Thương Công nghe xong, gật đầu và nói cho Tông Kiến biết mình đã phán đoán như thế nào khi nhìn thấy sắc đa trên mặt của Tống Kiến. Tiếp đó ông còn hướng dẫn Tống Kiến nên uống thuốc gì và báo cho Tống Kiến biết độ bao lâu nữa sẽ khỏi bệnh. Khi ra về con dặn dò Tống Kiến: “Thanh niên, không nên khoe mẽ hiếu thắng, bệnh của ngài là do không lường hết sức mình, hiếu thắng mà sinh ra”.
Lại một lần khác, Tề Bắc Vương cho mời Thương Công đến xem mạch cho các thị nữ của vua, khi khám đến một thị nữ có tên là Kiên, sắc mặt của Thương Công bỗng đăm chiêu lại, chờ cho thị nữ này đi ra, Thương Công nói với viên quan bên cạnh: “Tì tạng của cô gái này đã bị tổn thất nghiêm trọng, theo mạch bắt được, trễ lắm đến mùa xuân sang năm sẽ thổ huyết mà chết”.
Viên quan nói với Tề Bắc Vương về những kết quả khám bệnh cho vua nghe, Tề Bắc Vương lập tức gọi thị nữ lên, vua nhìn kỹ khắp lượt thị nữ, cảm thấy cô ta không có một hiện tượng gì chứng tỏ đang mắc bệnh nên vua không cho là như vậy. Nhưng đâu có ngờ đến mùa xuân năm sau, quả nhiên cô thị nữ đó thổ huyết và chết.
Từ hai câu chuyện nhỏ nói trên, chúng ta có thể hình dung được y thuật của Thương Công tài giỏi đến chừng nào.